THUẬT NGỮ “THAI SỪNG” NÊN BỊ LOẠI BỎ
The Term “Cornual Pregnancy” Should Be Abandoned
Bs Võ Tá Sơn
Thuật ngữ “thai sừng – cornual pregnancy” là không
chính xác bởi vì nó được áp dụng cho 5 nhóm thai kỳ khác nhau. Hai trong số đó
là thai ngoài tử cung, điều này được định nghĩa là thai bám bên ngoài khoang nội
mạc tử cung, và 3 trong số này là các thai trong tử cung. Mặc dù thuật ngữ “thai sừng” đã từng được sử dụng trong rất
nhiều năm, sự chính xác trong việc xác định vị trí của túi thai trong tương
quan với khoang nội mạc tử cung đang trở nên khả dĩ hơn với tiến bộ của các kỹ
thuật hình ảnh, như là siêu âm 3D hoặc cộng hưởng tử. Việc phân biệt giữa một
thai bám ngoài hoặc trong khoang nội mạc có tác động rất lớn đối với việc quản
lý thai kỳ. Một thuật ngữ với nhiều ý nghĩa khác nhau đối với các bác sĩ lâm
sàng khác nhau, sẽ có tác động khác nhau lên việc quản lý thai kỳ thay đổi từ
việc bảo tồn đến phẫu thuật hay điều trị hóa chất phá hủy với methotrexate hoặc
kali clorua. Vì là một thuật ngữ không chính khác và gây nhầm lẫn, cho nên “thai sừng” không nên được tiếp tục sử dụng
và cần bị loại bỏ.
Thuật ngữ “thai sừng” là một thuật ngữ dùng để mô tả
một khối phồng hoặc chèn ép lên bề mặt bên ngoài của tử cung ở vùng sừng, như
là quan sát trực tiếp của phẫu thuật viên, bác sĩ nội soi, hoặc bác sĩ bệnh học.
Một khối thai nằm lệch tâm gây nên hiệu ứng choán chỗ này đã được mô tả là “thai sừng”. Nhiều bác sĩ lâm sàng và bác
sĩ hình ảnh sử dụng thay thế thuật ngữ thai đoạn kẽ vòi tử cung (interstitial ectopic pregnancy) và thai
sừng cho nhau. Một số khác cho rằng “thai
sừng” nên chỉ được dùng cho các thai kỳ ở vị trí sừng trong tử cung 2 sừng
(bicornuate) hoặc tử cung có vách
ngăn (septal uterus). Một số khác thì
gọi các thai kỳ bám lệch trung tâm vào góc cao hai bên của khoang nội mạc tử
cung (ví dụ, trong sừng của tử cung) là thai góc (angular pregnancy), một thuật ngữ đã gây nhầm lẫn với thai đoạn kẽ
vòi tử cung.
Hai trong 5 nhóm thai kỳ trong
nhóm thai sừng này là thai ngoài tử cung: một nhóm là thai kẽ, túi thai cắm vào
phần kẽ của vòi tử cung, và nhóm thứ hai là các thai kỳ nằm trong sừng chột của
tử cung một sừng. 3 nhóm còn lại là thai trong tử cung, bao gồm các thai kỳ ở sừng
(cornu or horn) của tử cung 2 sừng, một
nhóm trong sừng của tử cung có vách, và một nhóm thai kỳ được gọi là thai góc –
túi thai bám lệch tâm nằm trong góc bên của khoang nội mạc tử cung tại vị trí
thu hẹp hướng về phía lỗ thông với vòi tử cung.
Hình 1:
Các vị trí khác nhau của túi thai bám gần vị trí sừng tử cung. Thuật ngữ “thai sừng” đã từng được sử dụng để mô tả
tất cả các loại thai kỳ khác nhau này. Do đó, nó gây nhầm lẫn cho bác sĩ siêu
âm và lâm sàng, và không nên được tiếp tục sử dụng. A, Túi thai cắm vào phần kẽ của vòi tử cung bên phải đoạn đi qua lớp
cơ tử cung ở phần sừng của tử cung, được gọi là “thai ngoài tử cung đoạn kẽ”. B,
Loại thai ngoài tử cung này cắm vào sừng chột bên phải tử cung trong tử cung một
sừng và không có thông thương với khoang nội mạc. C, Loại thai ngoài tử cung này cắm vào sừng chột bên phải của tử
cung một sừng và có thông thương trực tiếp với khoang nội mạc tử cung. D, Loại thai kỳ này cắm vào sừng phải của
tử cung hai sừng và do đó nó là thai trong tử cung. E, Loại thai kỳ này cắm vào sừng phải của tử cung có vách ngăn và
do đó nó là thai trong tử cung. F, Ở
phía bên trái của tử cung, túi thai cắm vào góc bên của khoang nội mạc, được gọi
là thai góc, đây là thai trong tử cung, không phải là thai ngoài tử cung. Tóm lại,
các thai kỳ được mô tả ở hàng trên (A-C)
là các thai ngoài tử cung, trong khi đó các thai kỳ ở hàng dưới (D-F) là các thai trong tử cung.
Thai ngoài tử cung đoạn kẽ cắm
vào phần kẽ của vòi tử cung đoạn đi qua phần sừng của cơ tử cung. Nó chiếm khoảng
2% đến 4% các loại thai ngoài tử cung. Sự bám dính này có vẻ có một vị trí lệch
trung tâm và gây nên một khối phồng ở đường viền của tử cung vượt ra ngoài bờ
trên – bên của đáy tử cung, về bên phía vị trí nối tử cung – vòi tử cung, và
bên cạnh vị trí của dây chằng tròn, điều này không thể được quan sát trên siêu
âm nhưng có thể quan sát bằng MRI. Do có một phần cơ tử cung bao quanh, túi
thai có xu hướng phát triển dài hơn và lớn hơn, trở nên giàu mạch máu, thường bị
vỡ từ 12 tuần tuổi thai, và dẫn để xuất huyết nặng có thể gây tử vong. Nguyên
nhân cơ bản là do lớp lót bên trong của ống dẫn trứng là niêm mạc, chứ không phải
nội mạc tử cung; do đó, không có màng rụng và lớp đáy màng rụng để làm rào căn
giữa màng rụng và cơ tử cung. Mô nguyên bào nuôi phát triển tới lớp niêm mạc mỏng
của ống dẫn trứng và xâm lấn vào lớp cơ, và sau đó là thanh mạc, dẫn tới vỡ ỗng
dẫn trứng. Một trong các dấu hiệu siêu âm được công bố sớm nhất của một thai
ngoài tử cung đoạn kẽ là lớp cơ tử cung rất mỏng đo dưới 5 mm bao xung quanh bờ
của túi thai và sự tách biệt với khoang tử cung rỗng. Dấu hiều tiếp theo là “đường kẽ - interstitial line sign”, là một
đường tăng âm mở rộng tử góc bên của cơ tử cung và hướng về phía khối thai ngoài
tử cung. Nhiều nhà siêu âm cũng đồng ý rằng đường này rất khó được quan sát và
thường không hữu ích trong chẩn đoán. Tuy nhiên, một dấu hiệu quan trọng và hữu
ích hơn là một dải cơ tử cung kém âm nằm dọc bờ trong của túi thai, nằm giữa
khoang nội mạc tử cung và viền tăng âm của túi thai ngoài tử cung. Lớp cơ tử
cung này làm cho sự tách biệt rõ ràng hơn của túi thai so với nội mạc tử cung.
Một dấu hiệu khác đó là hình ảnh Doppler màu cho thấy một vòng mạch xung quanh
túi thai ngoài tử cung. Siêu âm 3D rất có ích trong việc phân biệt một thai
ngoài tử cung đoạn kẽ và các dạng khác của thai sừng. Điều trị thường là phẫu
thuật cắt bỏ khối thai ngoài, vì việc tiêm trực tiếp methotrexate vào túi thai
kẽ có tỷ lệ thành công thấp hơn so với thai đoạn bóng vòi tử cung.
Hình 2:
Thai ngoài tử cung đoạn kẽ với lớp cơ tử cung mỏng bao phủ. Siêu âm ngã âm đạo
trên mặt cắt ngang của tử cung (U)
cho thấy vị trí lệch tâm của túi thai kẽ tách biệt với khoang nội mạc tử cung,
chứa phôi sống với hoạt động tim thai (dấu
sao). Chú ý lớp màng mỏng của cơ tử cung bao quanh bờ ngoài túi thai (mũi tên). Bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt
bỏ góc sừng và vòi trứng.
Hình 3:
Thai ngoài tử cung đoạn kẽ với dấu hiệu đường kẽ. Siêu âm ngã âm đạo cắt ngang
tử cung (U) cho thấy vị trí bám lệch
trung tâm của túi thai kẽ tách biệt với khoang nội mạc tử cung. Mũi tên mở chỉ
vào dấu hiệu đường kẽ, mở rộng tử cơ tử cung về phía túi thai đoạn kẽ (mũi tên đầy).
Hình 4:
Thai ngoài tử cung đoạn kẽ. A, Mặt cắt
ngang tử cung cho thấy túi thai ngoài tử cung đoạn kẽ (dấu sao) nằm lệch tâm về phía bên trái tách biệt với khoang nội mạc
tử cung chứa dịch (E). Chú ý rằng cơ
tử cung (mũi tên dài) làm tách biệt
rõ ràng túi thai kẽ và khoang nội mạc tử cung và bao xung quanh túi thai (mũi tên ngắn). B, Siêu âm ngã âm đạo cắt ngang một tử cung khác cho thấy túi thai
kẽ (dấu sao) nằm lệch tâm về phía bên
phải tách biệt với nội mạc tử cung (E).
Chú ý rằng lớp cơ tử cung mỏng (mũi tên
dài) tách biệt túi thai kẽ với khoang nội mạch tử cung và bao xung quanh
túi thai (mũi tên ngắn).
Hình 5:
Hình ảnh mặt cắt coronal trên siêu âm 3D của một tử cung với thai đoạn kẽ. Mặt
cắt coronal tử cung dựng lại từ siêu âm 3D ngã âm đạo cho thấy khoang nội mạc tử
cung rỗng (E) với túi thai nằm lệch
tâm chứa phôi thai (dấu sao) nằm
trong phần kẽ của ống dẫn trứng ở vị trí nó đi qua phần sừng của cơ tử cung.
Chú ý lớp cơ tử cung mỏng bao quanh bờ ngoài túi thai (mũi tên nhỏ) và một lớp mỏng cơ tử cung bờ trong (mũi tên dài) phân tách túi thai với
khoang nội mạc tử cung. Theo định nghĩa nó là thai ngoài tử cung vì nằm ngoài
khoang nội mạc tử cung.
Sự làm tổ xảy ra ở sừng chột
được gắn vào tử cung một sừng bất thường “hình
quả chuối” cũng được gọi là “thai sừng”.
Trong hầu hết các trường hợp, sừng chột không có thông thương với khoang nội mạc
tử cung chính, mặc dù một số có thể thông thương, do đó, triệu chứng xuất huyết
âm đạo có thể có hoặc không hiện diện. Mặc dù thực tế rằng sự làm tổ này ở
trong khoang nội mạc rất nhỏ của sừng chột, nhưng nó vẫn được phân loại là “thai sừng” bởi vì nó có xu hướng vỡ ở
quý 2. Túi thai này di động tách biệt với tử cung và được bao quanh bởi cơ tử
cung. Vì khi thai phát triển, nó có biểu hiện như một khối phần phụ, làm cho chẩn
đoán trở nên khó khăn hơn. Dựa vào số lượng mô cơ tử cung bao xung quanh, thai
kỳ có thể tiếp tục phát triển lớn hơn và thường dẫn tới vỡ sừng chột gây chết
thai và xuất huyết nặng. Một biến chứng khác là mô nhau bám chặt bất thường. Có
một số báo cáo trong y văn về các thai nhi sống sót tới quý 3 thai kỳ, với rất
hiếm các báo cáo của thai sinh sống bằng cách mổ lấy thai. Thông thường, phẫu
thuật cắt bỏ hoặc tiêm kali clorua hoặc methotrexate vào túi thai với phẫu thuật
cắt bỏ sau đó được thực hiện để ngăn ngừa các biến chứng nặng nề.
Hình 6:
Thai ngoài tử cung nằm trong sừng chột của tử cung một sừng. A, Hình ảnh MRI coronal T2 của tiểu
khung cho thấy tử cung (U) và khối
thai ngoài nằm bên cạnh (mũi tên) chứa
phôi thai khoảng 10 tuần. Khối thai có vẻ gắn vào tử cung. B, Hình ảnh trong mổ cho thấy khối thai ngoài (mũi tên) nằm trong sừng chột gắn vào tử cung một sừng. Khối thai
ngoài này được cắt bỏ mà không có biến chứng nào.
Một túi thai nằm trong sừng của
tử cung hai sừng cũng được gọi là “thai sừng”.
Các thai kỳ này được quản lý theo dõi, vì chúng là thai trong tử cung. Tử cung
hai sừng có vết lõm sâu ở đáy tử cung, tạo nên hình ảnh tử cung hình tim, và có
một vách cơ tử cung dày ở giữa các khoang nội mạc tử cung. Cũng có một vết lõm
dọc theo bờ trước và sau của tử cung hai sừng. Loại tử cung này chiếm 25% các bất
thường của tử cung và có tỷ lệ sảy thai thấp hơn so với tử cung có vách.
Hình 7:
Thai trong tử cung nằm trong sừng của tử cung hai sừng. A, Mặt cắt coronal qua ngã bụng của tử cung cho thấy sự lõm sâu ở
đáy tử cung (mũi tên đầu). Tử cung tư
thế ngả trước do đó mặt cắt coronal có thể thu được qua siêu âm ngã bụng. Túi
thai (dấu sao) nằm trong sừng phía
bên phải của tử cung hai sừng, do đó được gọi là “thai sừng”. Nội mạc tử cung (E)
ở sừng trái hiện diện rõ do tác động của hormone thai nghén. B, Mặt cắt ngang qua ngã âm đạo của một
tử cung khác cho thấy túi thai trong tử cung nằm lệch tâm (dấu sao) trong sừng trái của tử cung hai sừng. Khoang nội mạc tử
cung (E) ở sừng phải trống rỗng. Chú
ý rằng vách dày cơ tử cung (M) giữa
hai sừng và vết lõm phía trước và sau trên bề mặt tử cung, là một phần của bờ tử
cung hai sừng.
Túi thai trong sừng của tử
cung có vách cũng được gọi là “thai sừng”
và nó là thai trong tử cung. Tử cung có vách chiếm 55% các bất thường tử cung
và có tỷ lệ sảy thai cao. Trên siêu âm 3D, đáy của tử cung nguyên vẹn, không có
vết lõm, điều này giúp phân biệt tử cung có vách với tử cung hai sừng. Vách này
có thể dày hoặc mỏng tùy thuộc vào số lượng và/hoặc hỗn hợp của mô cơ và sợi.
Vách này cũng có thể là một phần (tử cung
có vách một phần) hoặc toàn phần và có thể mở rộng vào đến cổ tử cung. Trên
siêu âm, túi thai có vẻ lệch tâm, và một điều quan trọng là quan sát bờ và hình
ảnh của đáy tử cung, do đó, mặt cắt coronal của đáy tử cung trên siêu âm 3D là
rất cần thiết.
Hình 8:
Thai trong tử cung nằm trong sừng trái của tử cung có vách. Mặt cắt ngang trên
siêu âm ngã âm đạo của tử cung có vách cho thấy túi thai trong tử cung nằm lệch
tâm (dấu sao) ở trong sừng trái của tử
cung có vách và do đó gọi là “thai sừng”.
Khoang nội mạc tử cung (E) ở trong sừng
phải trống rỗng và chứa echo dày sáng của nội mạc tử cung do sự kích thích của
hormone thai nghén. Chú ý rằng có sự tách biệt mỏng và bóng cản âm (mũi tên) từ vách sợi ngăn ở giữa hai sừng.
Hình 9:
Hình ảnh coronal trên siêu âm 3D của tử cung có vách một phần với túi thai
trong tử cung nằm ở sừng trái. Hình ảnh 3D coronal dựng lại từ siêu âm ngã âm đạo
của tử cung cho thấy túi thai (dấu sao)
nằm lệch tâm ở trong sừng trái của tử cung có vách một phần. Chú ý rằng bờ viền
đáy tử cung mềm mại và không có vết lõm nào (mũi tên nhỏ), điều này giúp phân biệt với tử cung hai sừng. Khoang
nội mạc (E) ở sừng phải trống rỗng.
Có một vách không hoàn toàn (mũi tên lớn)
nằm giữa hai sừng tử cung.
Hầu hết các bác sĩ hình ảnh và
lâm sàng không quen thuộc với thuật ngữ “thai
góc – angular pregnancy”, mặc dù thuật ngữa này được đưa ra bởi nhà sản
khoa Howard Kelly vào năm 1898, dựa trên các dấu hiện phẫu thuật về việc “bám dính của phôi vào giữa chỗ nối tử cung –
vòi tử cung, trong phần góc bên của khoang nội mạc tử cung”. Tình trạng này
do sự làm tổ ở góc bên cao hoặc góc của khoang nội mạc tử cung và đưa tới hình ảnh
của một túi thai lệch tâm, điều này đã được gọi nhầm là thai ngoài tử cung. Vì
độ phân giải của máy siêu âm ban đầu kém hơn nhiều so với công nghệ hiện tại,
các báo cáo trước đó trong y văn đã không chính xác trong việc xác định vị trí
thai. Khác với thai ngoài tử cung đoạn kẽ, một thai góc bám vào góc bên cao của
khoang nội mạc tử cung, giữa chỗ nối tử cung – vòi tử cung và giữa dây chằng
tròn, có thể thấy được trên MRI. Siêu âm 3D rất hữu ích trong chẩn đoán. Về mặt
siêu âm, túi thai có bề mặt rộng tiếp xúc với âm vang của nội mạc tử cung; do
đó, nó nằm hoàn toàn trong nội mạc tử cung. Có một lớp cơ tử cung đầy đủ bao
quanh túi thai ở bờ ngoại vi, và không có lớp cơ tử cung xen vào giữa khoang nội
mạc tử cung và túi thai, như trong thai ngoài tử cung đoạn kẽ. Bệnh nhân có thể
có triệu chứng đau kéo dài và chảy máu trong suốt thai kỳ, và có một số báo cáo
trong y văn về tăng nguy cơ sảy thai tự nhiên, vỡ tử cung (23.5% các trường hợp),
và sự bám dính bất thường này có thể gây nên nhau cài răng lược. Nguy cơ có thể
bị phóng đại bởi vì các trường hợp thai ngoài tử cung đoạn kẽ bị lẫn vào trong
các báo cáo này. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây tin rằng vẫn có tăng nguy cơ
đi kèm với các thai kỳ có túi thai bám vào góc bên của khoang nội mạc tử cung.
Các loạt ca lớn hơn với sự mô tả chính xác hơn vị trí của túi thai là cần thiết
để thiết lập nguy cơ của các thai này.
Hình 10:
Thai trong tử cung bám vào góc bên hoặc góc của khoang nội mạc ở đáy tử cung. A, Mặt cắt ngang tử cung qua ngã âm đạo
cho thấy túi thai lệch tâm (mũi tên lớn)
bám vào góc bên phải của khoang nội mạc tử cung (E). Đây là thai trong tử cung và có bề mặt tiếp xúc rộng với nội mạc
tử cung (dấu sao), bao phủ hoàn toàn
túi thai. Cơ tử cung bao quanh bờ ngoài của túi thai (mũi tên nhỏ). B, Mặt cắt
coronal tử cung trên dựng hình 3D qua ngã âm đạo cho thấy túi thai sớm nằm lệch
tâm ở góc bên phải của khoang nội mạc tử cung. Đây là thai trong và có diện bề
mặt tiếp xúc rộng với nội mạc tử cung (dấu
sao).
Hình 11:
So sánh giữa thai góc trong tử cung và thai kẽ ngoài tử cung. A, mặt cắt ngang tử cung qua đường âm đạo
cho thấy một thai góc, nằm lệch tâm (dấu
sao) bám vào góc bên trái của khoang nội mạc tử cung (E). Đây là thai trong tử cung và có diện tiếp xúc rộng với nội mạc
tử cung (mũi tên đầu), bao phủ liên tục
xung quanh túi thai. Cơ tử cung bao xung quanh bờ ngoài của túi thai (mũi tên). B, Mặt cắt ngang tử cung qua đường âm đạo cho thấy túi thai kẽ
ngoài tử cung nằm lệch tâm (dấu sao),
tách biệt với khoang nội mạc tử cung (E).
Nó nằm ở phần kẽ của vòi tử cung đoạn đi trong phần sừng của tử cung. Chú ý rằng
có dải cơ tử cung mỏng (mũi tên) tách
biệt túi thai kẽ ngoài tử cung với khoang nội mạc tử cung và bao quanh túi
thai.
Rõ ràng thực tế rằng có 5 nhóm
thai kỳ được gọi là “thai sừng” vì chúng
xảy ra ở vị trí vùng sừng của tử cung. Một số là thai ngoài tử cung, số còn lại
là thai trong tử cung. Vì thuật ngữ này có nhiều nghĩa khác nhau đối với các
bác sĩ lâm sàng khác nhau, điều này đưa đến rất nhiều tác động lên điều trị
khác nhau, cho nên, thuật ngữ “thai sừng” nên bị loại bỏ. Điều quan trọng hơn
nhiều là phải mô tả chính các vị trí trên siêu âm và đặc điểm của túi thai để
tránh sự nhầm lẫn giữa các nhà lâm sàng và những hậu quả nghiêm trọng có thể xảy
ra trong xử trí các thai kỳ này.
THAM KHẢO
Baltarowich, O.H. (2017), The
Term “Cornual Pregnancy” Should Be Abandoned. J Ultrasound Med, 36: 1081-1087. doi:10.1002/jum.14207
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét