Giải trình tự exome trước sinh 65 thai nhi với bất thường
thể chai: góp phần chẩn đoán sâu hơn
Bs Võ Tá Sơn lược dịch
Mục tiêu
Bất thường thể chai (AbnCC) do
nhiều nguyên nhân gây ra và tiên lượng các trường hợp được chẩn đoán trước sinh
khó dự đoán. Mục tiêu của nghiên cứu này là thiết lập phương pháp chẩn đoán dựa
vào CMA và ES trong các trường hợp đơn độc (iAbnCC) và không đơn độc (niAbnCC).
Phương pháp
CMA và trio ES (pES) được thực
hiện ở 65 thai nhi với iAbnCC và niAbnCC. Chỉ có biến thể gene gây bệnh đã được
biết có liên quan với AbnCC và/hoặc khiếm khuyết trí tuệ được cân nhắc.
Kết quả
Kết quả pES có sẵn trong vòng
trung bình 21.5 ngày (9-53 ngày). Một biến thể đơn nucleotide (SNV) gây bệnh đã
được xác định ở 12 trường hợp (18%) và một CNV gây bệnh đã được xác định trong
3 trường hợp (4.5%). Do đó, nguyên nhân di truyền được xác định trong 23% các
trường hợp. Trong tất cả các trường hợp được chẩn đoán nguyên nhân, kết quả này
đã cung cấp một cách đầy đủ các thông tin liên quan đến tiên lượng phát triển
thần kinh và giúp bố mẹ thai nhi có thể đưa ra quyết định liên quan đến kết cục
thai kỳ.
Kết luận
Kết quả của nghiên cứu cho thấy
đóng góp đáng kể về mặt chẩn đoán và tiên lượng của CMA và pES trong các trường
hợp AbnCC được chẩn đoán trước sinh. Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu sâu hơn với kết
quả theo dõi dài hạn của các trẻ được sinh ra là cần thiết để mang lại sự tư vấn
chính xác sau khi có kết quả pES âm tính.
Genetics in Medicine (2020) https://doi.org/10.1038/s41436-020-0872-8
SNV |
BRAT1, PPP2R1A, PTPN11, TUBA1A,
KIF1A, ASXL3, SHROOM4, ARID1B, ZEB2, ZBTB20, KANSL1, BRPF1 và RTTN |
CNV |
6qter deletion, 17q21
deletion, và 2q22 deletion |
Các bình luận đáng chú ý:
·
MRI thai nhi thường không được chỉ định trước 30 tuần
vì các rối loạn di trú và hiện tượng rãnh não hóa tiên phát muộn không thể được
phát hiện trước thời điệm cuối quý 2.
·
Thực hiện CMA + pES mang lại thêm 23% các trường hợp được
chẩn đoán nguyên nhân di truyền.
·
Thời gian chờ trung bình cho kết quả ES là 21.5 ngày,
do đó, nó là khả dĩ trong thai kỳ.
·
Khả năng chẩn đoán cao hơn đối với nhóm không đơn độc
(42%) so với nhóm đơn độc (15%).
·
Ở các trường hợp chẩn đoán có nguyên nhân di truyền
trong thai kỳ, 11/14 (73%) bố mẹ lựa chọn chấm dứt thai kỳ.
·
Khi pES không tìm thấy bất thường, 42/50 (84%) bố mẹ lựa
chọn tiếp tục thai kỳ.
·
Trong 7 ca bất thường CC đơn độc tìm được nguyên nhân
di truyền trên pES, 5/7 trường hợp lựa chon chấm dứt thai kỳ à pES giúp
thay đổi đáng kể lựa chọn theo dõi thai kỳ trong các trường hợp đơn độc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét