SIÊU ÂM CHI TIẾT HỆ THẦN KINH THAI NHI
Tóm tắt phần 2 hướng dẫn siêu âm hệ thần
kinh thai nhi của ISUOG 2021
Bs Võ Tá Sơn
Đơn vị Y học bào thai, Bệnh viện Vinmec
Times City
Cho dù việc siêu
âm được thực hiện qua ngã âm đạo hay qua ngã bụng, việc căn chỉnh thích hợp đầu
dò dọc theo các mặt phẳng chính xác thường yêu cầu sự xoay chuyển nhẹ nhàng đầu
thai nhi. Có thể sử dụng nhiều mặt cắt khác nhau, tùy thuộc vào vị trí của thai
nhi. Đánh giá hệ thống của não thường bao gồm việc quan sát bốn mặt phẳng coronal
và ba mặt phẳng sagittal. Chúng tôi trình bày ở đây mô tả về các cấu trúc khác
nhau có thể được quan sát trong tam cá nguyệt thứ hai và thứ ba. Ngoài các cấu
trúc giải phẫu, siêu âm thần kinh thai nhi cũng nên bao gồm đánh giá sự gấp nếp
của não thai nhi, điều này thay đổi trong suốt thai kỳ.
Hình 1: Mặt cắt coronal đầu thai nhi. (a) Mặt cắt qua trán.
Rãnh liên bán cầu (IHF) nằm giữa hai thùy trán. Xương bướm tạo nên trần của hốc
mắt và hốc mắt cũng có thể được quan sát trên mặt cắt này. (b) Mặt cắt ngang
nhân đuôi. Hai sừng trán (mũi tên đầu) được quan sát ở mỗi bên của khoang vách
trong suốt (mũi tên). Diện ngang phần trước của thân thể chai cũng được quan
sát với hình ảnh dải kém âm nhẹ ở bên trên khoang vách trong suốt và ở giữa các
sừng trán. Mô hạch (GE) được nhìn thấy ở dưới bên của các sừng trán. (c) Mặt cắt
ngang đồi thị. Đồi thị (các mũi tên) và thùy đảo (*) được đánh dấu. (d) Mặt cắt
ngang tiểu não. Các sừng chẩm của não thất bên (các mũi tên) và tiểu não (mũi
tên đầu) được đánh dấu.
Các
mặt cắt coronal của não thai nhi
Mặt cắt qua
trán
Quan sát mặt cắt coronal
qua trán được thực hiện thông qua thóp trước. Mặt cắt này cho phép quan sát đường
giữa liên bán cầu và các thùy trán của não. Mặt cắt này nằm trước thể chai và
do đó không quan sát thấy vị trí gián đoạn của rãnh liên bán cầu. Các cấu trúc
khác xuất hiện trên mặt cắt này là xương bướm và đôi khi là hốc mắt. Ở giai đoạn
muộn của thai kỳ, các rãnh khứu giác cũng có thể được nhìn thấy.
Hình 2: Mặt cắt coronal qua trán thai nhi. Sau tuần 26, rãnh
khứu (olfactory sulci) (mũi tên) có thể được quan sát ngay phía trên xương bướm.
Mặt cắt ngang
nhân đuôi
Mặt cắt ngang nhân
đuôi thu được thông qua cách tiếp cận dịch đầu dò về phía sau một chút, nghiêng
và/hoặc trượt đầu đò về phía bờ sau của thóp sau. Đây là một trong những mặt cắt
quan trọng nhất trong siêu âm hệ thần kinh thai nhi. Trên mặt cắt này có thể thấy:
các sừng trán của não thất bên; khoang vách trong suốt (cấu trúc hình tam
giác/hình thang nằm dưới thể chai và nằm giữa hai sừng trán); cắt ngang phần
trước thân của thể chai - có hình ảnh dải kém âm nhẹ nằm ở phía trên khoang
vách trong suốt và nằm giữa các sừng trán; liềm đại não; mô hạch (ganglionic
eminance); và nhân đuôi.
Mặt cắt ngang
đồi thị
Mặt cắt ngang đồi
thị tương đối gần với mặt cắt ngang nhân đuôi. Mặt cắt này đôi khi thu được qua
thóp trước, bằng cách nghiêng đầu dò, và đôi khi lại thu được qua rãnh dọc mở.
Đồi thị 2 bên được quan sát gần nhau. Não thất 3 có thể được quan sát ở đường
giữa với lỗ liên não thất Monro; ở một mặt phẳng dịch về phía sau một chút, ngã
3 não thất bên với đám rối màng mạch xuất hiện ở mỗi bên. Gần về phía đáy sọ ở
đường giữa, bể đáy chứa các mạch máu của đa giác Willis và chéo thị giác. Mặt cắt
này cũng cung cấp cái nhìn đầy đủ của rãnh Sylvius. Việc đánh giá các mốc giải
phẫu của rãnh Sylvius là rất quan trọng; để quan sát nó, cần đè đầu dò lõm vào
thóp trước, nhẹ nhàng nhưng chắc chăn, nếu không thì bóng cản bên của xương đỉnh
sẽ làm giảm khả năng quan sát thùy đảo (insula) và vùng rãnh Sylvius.
Mặt cắt ngang
tiểu não
Mặt cắt ngang tiểu
não là mặt cắt trán duy nhất thu được qua thóp sau. Nó cho phép quan sát các sừng
chẩm của não thất bên và rãnh liên bán cầu. Tùy thuộc vào tuổi thai, rãnh cựa
và sâu hơi là rãnh đỉnh chẩm, cũng có thể được quan sát. Cả hai bán cầu tiểu
não và thùy nhộng cũng được nhìn thấy trên mặt cắt này ở thiết diện ngang. Thùy
nhộng tăng âm hơn so với các bán cầu tiểu não.
Hình 3: Trên mặt cắt ngang tiểu não của đầu thai nhi, rãnh cựa
đang phát triển (calcarine sulci) (mũi tên) có thể được quan sát: (a) thai 21
tuần; (b) thai 26 tuần; (c) thai 31 tuần.
Các
mặt cắt dọc của não thai nhi
Hình 4: Mặt cắt dọc của đầu thai nhi. (a) Mặt cắt dọc giữa
trước. Các mốc giải phẫu có thể được xác định trên mặt cắt này: phần giữa của
thể chai (mũi tên); bên dưới nó là khoang vách trong suốt với cavum vergae (khi
hiện diện); não thất 3 (3); não thất 4 (*); thùy nhộng (v). Cống Sylvius cũng
có thể được quan sát. (b) Mặt cắt parasagittal. Các mốc giải phẫu có thể được
nhìn thấy trên mặt cắt này: nhu mô não (BP); não thất bên (lv) với đám rối màng
mạch của nó (cp); sừng đỉnh; tùy thuộc vào tuổi thai và mức độ nghiêng của đầu
dò, có thể thấy một phần nhỏ của rãnh Sylvius (mũi tên).
Mặt cắt dọc
giữa trước
Mặt cắt dọc giữa
phía trước thu được qua thóp trước cho phép quan sát đường giữa của não. Khi
khám nghiệm các cấu trúc dưới lều, một mặt cắt khác qua thóp sau được ưa dùng
hơn. Mặt cắt dọc giữa này cho phép quan sát thể chai với đầy đủ các thành phần
của nó. Cụ thể, 4 phần của thể chai – mỏ, gối, thân và lồi – và các thành phần
quan hệ mật thiết với nó đó là khoang vách trong suốt và cavum vergae - khi hiện
diện, đều được quan sát. Ở dưới khoang vách trong suốt, não thất 3 có thể được
quan sát như là một cấu trúc kém âm, nhưng phần phía trên của nó lại tăng âm vì
có sự hiện diện của tela choroidea. Các cấu trúc giải phẫu vùng dưới lều cũng
được quan sát trên mặt cắt này, cụ thể là thùy nhộng và não thất 4. Tuy nhiên,
để quan sát đầy đủ và đánh giá các cấu trúc này, khuyến cáo nên sử dụng mặt cắt
dọc giữa tiếp cận từ phía sau. Việc sử dụng Doppler màu, động mạch não trước,
các động mạch quanh thể chai với các nhánh của nó và tĩnh mạch Galen có thể được
quan sát, nhưng vai trò của nó là không đáng kể trong việc đánh giá thể chai.
Mặt cắt dọc
giữa sau
Mặt cắt dọc giữa
sau thu được thông qua rãnh khớp dọc hoặc tốt hơn là qua thóp sau. Cần chú ý để
tránh bóng cản từ xương chẩm lên hố sau và bể lớn, điều này làm cho việc quan
sát hình ảnh bị giới hạn, hoặc không thể quan sát. Với cách tiếp cận từ phía
sau, thùy nhộng được bộc lộ từ phía trên và tia siêu âm tạo một góc 90 độ so với
thân não, tạo điều kiện tốt nhất để quan sát phần cấu trúc não này, điều mà vốn
vẫn khó quan sát trên siêu âm. Tất cả các mốc giải phẫu của thùy nhộng và hố
sau có thể được khảo sát thông qua mặt cắt này. Chúng bao gồm: mặt cắt dọc giữa
của toàn bộ thùy nhộng, với fastigium, rãnh nguyên phát (và cả rãnh thứ phát ở
tuổi thai lớn) và các thùy của thùy nhộng; não thất tư hình tam giác; bể lớn;
thân não với não giữa, cầu não và hành não. Bờ trên của hố sau, được đại diện bởi
lều tiểu não, cũng có thể được xác định. Trên mặt cắt dọc giữa này, thường có
thể quan sát dịch ở trong cống Sylvius, đặc biệt là trong quý 2.
Hình 5: Mặt cắt dọc giữa sau thu được bằng cách đặt đầu dò
qua thóp sau và là mặt cắt tốt nhất để đánh giá hố sau. Các mốc giải phẫu được
quan sát trên mặt cắt này: thùy nhộng tiểu não (V), với điểm fastigium và não
thất 4 (mũi tên); bể lớn hố sau (*); lều tiểu não (mũi tên đôi); thân não (bs)
với cầu não. Cống Sylvius (mũi tên đầu) có thể được quan sát.
Các mặt cắt
parasagittal
Các mặt cắt
parasagittal thu được bằng cách di chuyển hoặc nghiêng đầu dò nhẹ sang 2 bên từ
mặt cắt dọc giữa. Các mặt cắt này quan sát não thất bên, đám rối màng mạch, nhu
mô não quanh não thất bên và đặc biệt ở trong quý 3 đó là các cuộn não của vỏ
não, trên bề mặt cong của não, cũng như các phần khác của thùy đảo/rãnh
Sylvius. Mặt cắt hơi dịch về 2 bên sẽ cho phép quan sát sừng thái dương của các
não thất bên và thùy đảo.
Các mặt cắt
khác
Các mặt cắt được
mô tả ở trên là các mặt cắt chủ yếu được đánh giá khi thực hiện siêu âm chi tiết
hệ thần kinh thai nhi. Tuy nhiên, tùy theo tiêu điểm của cuộc khám, các mặt cắt
sagittal và corona trung gian có thể được quan sát và đôi khi rất hữu ích. Ví dụ
cụ thể, khi khám nghiệm hố sau, các mặt cắt coronal bổ sung tập trung vào diện
cắt ngang của thùy nhộng có thể cần thiết.
Siêu
âm 3 chiều
Mặc dù có một số mốc
hữu ích đảm bảo sự đầy đủ của một mặt cắt dọc giữa của não thai nhi (ví dụ như
thể chai và thùy nhộng), không có gì lạ khi người làm siêu âm không chú ý đến độ
lệch nhỏ so với mặt cắt dọc giữa chuẩn. Điều này có thể ảnh hưởng không chỉ đến
phép đo mà còn đánh giá định tính của não và thân não. Do đó việc sử dụng siêu
âm 3D trong siêu âm chi tiết hệ thần kinh thai nhi có thể đặc biệt hữu ích,
đóng góp theo 2 cách chính. Đầu tiên, sử dụng tương quan hình ảnh đa chiều, có
thể thu được các mặt cắt hoàn hảo trên 3 mặt phẳng vuông góc với nhau; thứ hai,
khả năng hiển thị các lát cắt dày hơn của não làm tăng tỷ lệ tín hiệu so với tạp
âm nền trên cả 3 mặt phẳng, với chất lượng hình ảnh được nâng cao đáng kể. Những
ưu điểm này hỗ trợ khuyến cáo của chúng tôi về việc sử dụng siêu âm 3D trong
đánh giá chi tiết não thai nhi.
Hình 6: Tương quan hình ảnh đa mặt cắt trên 3D giúp ích nhiều
cho việc đánh giá não thai nhi. Trên hình ảnh thai nhi 26 tuần này, sự sắp xếp
hoàn hảo các mặt cắt trực giao cho phép quan sát tất cả các cấu trúc não chính
trên cả 3 mặt cắt. Mặt cắt ngang nhân đuôi (A) cho thấy sừng trán (fh) của
các não thất bên, nằm mỗi bên của khoang vách trong suốt (*), và phần trước của
thùy đảo (mũi tên đầu). Trên mặt cắt dọc giữa (B), thể chai, khoang vách
trong suốt (*) và cavum vergae (V) được quan sát, cùng với thùy nhộng (ve) và một
phần của thân não (b). Trên mặt cắt ngang được dựng lại (C), thùy đảo được
quan sát rõ (mũi tên đầu), cùng với khoang vách trong suốt (*) và cavum vergae
(V).
cảm ơn Bs Sơn
Trả lờiXóaCám ơn a ạ
Trả lờiXóa