Trang

Thứ Bảy, 10 tháng 7, 2021

CVI bình thường ở thai 14 – 17 tuần trên siêu âm chi tiết hệ thần kinh

 

CVI bình thường ở thai 14 – 17 tuần trên siêu âm chi tiết hệ thần kinh

Bs Võ Tá Sơn

Đơn vị Y học bào thai, Bệnh viện Vinmec Times City

 

CVI: cavum veli interpositi - tạm dịch là “khoang giữa màng mềm”

CSP: cavum septi pellucidi – khoang vách trong suốt

Tela choroidea (TC) là một vùng của màng mềm bám vào nội mạc khoang não (ependyma), và tạo ra đám rối màng mạch trong các não thất.

Mời quý vị đề xuất bản dịch hay hơn cho từ CVI.

 

Các điểm mới của nghiên cứu này là gì?

Cấu trúc dạng nang ở giữa hai bán cầu được quan sát trên siêu âm não thai nhi ở 14 – 17 tuần thai kỳ là CVI sinh lý thoáng qua. CVI ở giai đoạn sớm nằm ở mặt lưng của các tĩnh mạch não trong và được quan sát ở một nửa các thai nhi bình thường, như là một phần của sự phát triển đường giữa bình thường.

Ứng dụng lâm sàng của nghiên cứu này là gì?

Khách hàng nên được trấn an khi phát hiện nang chứa dịch trên siêu âm não thai nhi trong giai đoạn sớm của quý 2 thai kỳ mà không đi kèm với bất thường nào khác của các cấu trúc đường giữa. Hình ảnh Doppler có thể cung cấp thông tin bổ sung chẩn đoán cho siêu âm chi tiết sớm hệ thần kinh khi có nghi ngờ cấu trúc nang đường giữa.

 

Khoang giữa màng mềm thai nhi (CVI) là một cấu trúc dạng nang đường giữa nằm sau não thất 3, nằm dưới lồi thể chai và cuộn nối hải mã, chiếm khoảng không gian giữa hai lớp màng mềm.

Thể chai (CC) xuất hiện lần đầu tiên trên siêu âm khoảng quanh 14 tuần, ở phần lưng và mỏ của lỗ Monro, và bắt đầu bắc cầu qua đáy của rãnh liên thùy, tạo ra khoang vách trong suốt tương lai (future CSP), mà ở giai đoạn đầu này, vẫn còn bị chèn ép bởi các thành phần di động. Sự phát triển về phía đuôi của CC tiếp tục dọc theo rãnh liên thùy, dần dần xác định ranh giới tương lai của CSP, với trần của não thất 3 trở thành sàn của CSP. Ngoài ra, sự mở sộng của các bán cầu đoan não gần dọc theo đường giữa, chồng lên gian não và não thất 3. Vì cả hai bán cầu và gian não đều được bao phủ bởi một lớp màng mềm liên tục, sự chồng chéo này dẫn đến sự hình thành TC (tela choroidea) hai lớp, cũng được biết với tên là VI (velum interpositum), bao phủ nội mạc trần của não thất 3. Vì sự gấp nếp này của màng mềm, TC được nằm gần phía trước gần vị trí của lỗ Monro, và tiếp tục ở phía sau như một không gian tiềm ẩn nằm dưới vòm não, liên tiếp với bể chứa trên (quadrigeminal cistern). Cấu trúc này làm phát sinh kiến trúc nhiều lớp của trần não thất 3, bao gồm: thân của vòm não, nơi mà vách trong suốt được gắn vào; sự bắt chéo cuộn nối hải mã (ví dụ psalterium); hai lớp của VI liên kết với nhau bởi các tổ chức bè lỏng lẻo; và một thành phần mạch máu (các động mạch màng mạch sau giữa và hai tĩnh mạch não trong (ICV) chảy về phía tĩnh mạch Galen). Gắn với lớp dưới của TC là các sợi của đám rối màng mạch của não thất 3. Sự tích tụ dịch đường giữa ở trên não thất 3 và trên ICV, về phía đuôi của CC đang phát triển, được gọi là CVI.

Quan sát đầu tiên của nghiên cứa là cấu trúc dạng nang ở đường giữa được quan sát ở một nửa thai nhi bình thường từ 14 – 17 tuần. Không có mối tương quan giữa kích thước nang và tuổi thai.

Thứ hai, ở tất cả các thai nhi, cấu trúc dạng nang này nằm ở giữa hai lớp VI và có khả năng mở rộng để thích nghi với sự tích tụ dịch.

Thứ ba, cấu trúc dạng nang được định vị dễ dàng, phía trên (tức là mặt lưng) của hai tĩnh mạch não trong (ICVs), ở tất cả các thai nhi. Nang này cũng nằm trên TC và đỉnh của não thất 3.

Trong y văn trước sinh, CVIs chỉ được mô tả trong nửa sau của thai kỳ, khi mà các cấu trúc đường giữa đã được thiết lập. Khi đơn độc, CVI không đi kèm với tăng nguy cơ các kết cục bất lợi. Tuy nhiên, CVI tiến triển có thể dẫn đến các mức độ khác nhau của giãn não thất do tắc nghẽn. Youssef và cộng sự cho thấy các dấu hiệu bất thường hệ thần kinh trung ương thêm vào (ngoài giãn não thất) ở 21% các trường hợp CVI, nhưng nghiên cứu của họ có thể bị ảnh hưởng bởi sự nhầm lần trong chọn mẫu.

Để kết luận, cho tới bây giờ, CVI thai nhi đã được mô tả chỉ ở giai đoạn thai lớn, như một biến thể giải phẫu bình thường, hoặc, ít gặp hơn, như là một dấu hiệu bệnh lý. Chúng ta thấy rằng, khoảng một nửa thai nhi bình thường, trong quá trình phát triển của các cấu trúc đường giữa, có sự tích tụ dịch các mức độ  ở trong VI, tạo nên CVI sinh lý. Khách hàng nên được trấn an rằng đây là một hiện tượng sinh lý ở đầu quý 2 thai kỳ và rằng, nếu chỉ là một dấu hiệu đơn độc, nó không có ảnh hưởng lên sự phát triển của não thai nhi. Trong trường hợp một cấu trúc nang đường giữa được nghi ngờ, siêu âm hệ thần hinh ngã âm đạo sử dụng mode đa mặt cắt kết hợp với hình ảnh Doppler màu được coi là có giá trị chẩn đoán.

 



Hình 1: Mặt cắt ngang não thai nhi 16 tuần. Một cấu trúc dạng nang nằm giữa hai bán cầu được quan sát dọc theo đường giữa (mũi tên).



Hình 2: Hình ảnh siêu âm 3D (mode nhiều mặt cắt) của thai nhi 14 + 6 tuần, minh họa sự hình thành sớm của khoang giữa màng mềm (CVI).

(a) Mặt cắt dọc giữa: CVI được quan sát ở đỉnh và nằm phía sau TC của não thất 3 (tela choroidea) (đầu mũi tên xanh lam) và lỗ Monro (đầu mũi tên trắng mở). Chiều dài tối đa trước sau của khoang dịch dạng nang được đo đạc (đầu mũi tên màu xanh lá cây).

(b) Mặt cắt trán của CVI nằm giữa hai bán cầu (mũi tên gạch đứt màu xanh lá cây).

(c) Mặt cắt ngang cho thấy cấu trúc dạng nang nằm giữa hai bán cấu (mũi tên gạch đứt màu xanh lá cây).

(d) Hình minh họa cho thấy quá trình gấp nếp của màng mềm (pia mater) (các đường chấm màu xanh lam) bao phủ đoan não (telencephalon) ở phía trên, màng mềm bao phủ trần của gian não (diencephalon) dọc theo đường giữa và sang hai bên, tạo nên một màng 2 lớp xen giữa, ở trên trần của não thất 3, gần phía trước vị trí lỗ Monro. Các chấm đỏ ở hình (d) minh họa cho các tĩnh mạch não trong. *, khoang vách trong suốt thô sơ; 3V, não thất 3; 4V, não thất 4; AQ: cống Sylvius; CC, thể chai; LV, não thất bên; M, lỗ Monro.



Hình 3: Hình ảnh Doppler não thai nhi cho thấy giải phẫu mạch máu của đường giữa đang phát triển.

(a) Thai 14 +4 tuần. Mũi tên trắng chỉ vào thể chai và động mạch quanh thể chai; đầu mũi tên xanh lá cây chỉ vào phần phía sau của tĩnh mạch não trong dọc theo TC của não thất 3, đổ vào tĩnh mạch Galen.

(b) Thai 15 + 5 tuần. Mũi tên trắng chỉ vào thể chai và động mạch quanh thể chai; * chỉ vào khoang vách trong suốt tương lai; đầu mũi tên xanh lá cây chỉ vào toàn bộ tĩnh mạch não trong đổ vào tĩnh mạch Galen (G); mũi tên xanh lam sáng gạch đứt cho thấy định hướng của tia siêu âm, cùng hướng với dòng chảy trong tĩnh mạch não trong, đi từ phía trán. Ở góc này, toàn bộ tĩnh mạch não trong được quan sát, cùng với tĩnh mạch Galen (G) và xoang thẳng (S).

(c,d) Thai 16 + 5 tuần, hình (c) siêu âm đen trắng, hình (d) với Doppler màu. Mũi tên trắng mỏng chỉ vào thể chai; * chỉ vào khoang vách trong suốt tương lai; mũi tên trắng dày chỉ vào khoang giữa màng mềm (CVI); đầu mũi tên màu xanh lá cây chỉ vào tĩnh mạch não trong.

(e) Thai 18 tuần. Mũi tên trắng mỏng chỉ vào thể chai và động mạch quanh thể chai; * chỉ vào khoang vách trong suốt tương lai; đầu mũi tên màu xanh lá cây chỉ vào phần sau của tĩnh mạch não trong đổ vào tĩnh mạch Galen; S chỉ vào xoang thẳng; V chỉ vào thùy nhộng; mũi tên trắng dày chỉ vào lưng CVI và mạch máu trần não thất 3.

(f) Thai 16+0 tuần. Hình khối 3D tái tạo với Doppler màu; hình khối này được dựng lên bằng cách sử dụng kỹ thuật OmniView cho phép quan sát mặt phẳng cong dọc theo đường đi của mạch máu. Hai tĩnh mạch não trong (đầu mũi tên xanh lá cây) được quan sát thấy, một mạch ở mỗi bên của CVI (*), đổ vào tĩnh mạch Galen (mũi tên trắng).



Hình 5: Sự thoái triển tự nhiên của khoang giữa màng mềm (CVI) sinh lý ở giai đoạn sớm: hình ảnh theo dõi ở cũng một thai nhi.

(a) Ở 15+1 tuần, CVI trội lên được quan sát (đầu mũi tên).

(b) Sau 1 tuần, vào lúc 16+1 tuần, khoang này thoái triển tự nhiên.

(c) Vào lúc 23 tuần, không có cấu trúc dạng nang nào được quan sát dọc theo đường giữa phát triển bình thường.



Hình 6: Quá trình phát triển bình thường của các cấu trúc đường giữa của não thai nhi: (a) 15+5 tuần; (b) 22 tuần. Cặp đôi mũi tên dày chỉ vào thể chai; * chỉ vào khoang vách trong suốt (vẫn còn nhỏ, nhưng là bình thường ở 15 tuần); đầu mũi tên mở chỉ vào bờ trước TC của não thất 3 tại lỗ Monro. Đầu mũi tên đặc chỉ vào TC tạo nên trần não thất 3 (3V, mũi tên mảnh).

Tham khảo

[1] Birnbaum, R., Barzilay, R., Brusilov, M., Wolman, I. and Malinger, G. (2021), Normal cavum veli interpositi at 14–17 gestational weeks: three-dimensional and Doppler transvaginal neurosonographic study. Ultrasound Obstet Gynecol, 58: 19-25. https://doi.org/10.1002/uog.22176

[2] Blasi, I., Henrich, W., Argento, C. and Chaoui, R. (2009), Prenatal Diagnosis of a Cavum Veli Interpositi. Journal of Ultrasound in Medicine, 28: 683-687. https://doi.org/10.7863/jum.2009.28.5.683

1 nhận xét: