Hướng dẫn
thực hành ISUOG (cập nhật): sử dụng siêu âm Doppler trong sản khoa
Bs Võ Tá Sơn
Đơn vị Y học bào thai, Bệnh viện Vinmec Times City,
Hà Nội
I.
KỸ THUẬT THÍCH HỢP ĐỂ CẮT
DẠNG SÓNG DOPPLER ĐỘNG MẠCH TỬ CUNG
Sử dụng siêu âm
Dopper màu với thời gian thực, nhánh chính của động mạch tử cung được xác định
dễ dàng ở vị trí nối giữa cổ và thân tử cung. Việc đo các chỉ số Doppler thường
được thực hiện gần vị trí này, qua đường bụng hoặc đường âm đạo. Trong khi vận
tốc tuyệt đối có ít hoặc không có tầm quan trọng về mặt lâm sàng, việc đánh giá
bán định lượng vận tốc của dạng sóng thường được sử dụng. Việc đo đạc nên được
báo cáo độc lập cho động mạch tử cung bên phải và bên trái, và sự hiện diện của
NOTCH nên được ghi nhận (ĐIỂM THỰC HÀNH TỐT).
NOTCH được định
nghĩa một cách định tính như là giảm vận tốc tiền tâm trương trước dạng sóng
cao nhất của thời kỳ tâm trương. Mức độ nặng của NOTCH được định nghĩa bằng sự chênh
lệch giữa vận tốc sớm thấp
hơn và vận tốc cao nhất thời kỳ tâm trương.
Đánh giá động mạch tử cung
trong quý 1 (Hình 1)
1.
Kỹ
thuật qua ngã bụng
·
Trên
ngã bụng, mặt cắt dọc giữa của tử cung được ghi nhận, và xác định được ống cổ tử
cung
·
Đầu
dò sau đó được di chuyển sang hai bên cho đến khi quan sát thấy đám rối mạch
máu cạnh cổ tử cung.
·
Doppler
màu được bật lên và động mạch tử cung được xác định với đường đi hướng về phía
đầu, tạo nên đoạn đi ngược lên vào trong thân tử cung.
·
Việc
đo đạc được thực hiện ở vị trí trước vị trí động mạch tử cung chia thành các động
mạch hình cung.
·
Vì
PSV giảm từ động mạch tử cung đến các động mạch hình cung, phép đo PSV <
bách phân vị thứ 5 (60 cm/s) nên được cảnh báo để cho bác sĩ siêu âm xác nhận lại một
cách cẩn thận vị trí đặt cửa
sổ Doppler.
·
Quá
trình tương tự được lặp lại ở bên đối diện. Một phương pháp khác để thu được
tín hiệu Doppler bằng cách sử dụng mặt cắt ngang cổ tử cung cũng đã được mô tả,
và cho thấy giá trị có thể so sánh được và khả năng lặp lại tốt như nhau khi so
sánh với mặt cắt dọc.
2.
Kỹ
thuật qua ngả âm đạo
·
Thai
phụ nên được đề nghị đi tiểu sạch và nằm ở tư thế ngửa, chân gập 90 độ vào hông
(lithotomy position).
·
Qua
ngã âm đạo, đầu dò được đặt vào túi cùng trước. Tương tự như kỹ thuật qua ngã bụng,
đầu dò được di chuyển sang hai bên để quan sát đám rối mạch cạnh tử cung, và
các bước tiếp theo tương tự như khi thực hiện qua ngã bụng.
·
Cần
chú ý không bộc lộ động mạch cổ tử cung – âm đạo (chạy theo hướng từ đầu đến
chân) hoặc các động mạch hình cung.
Đánh giá động mạch
tử cung trong quý 2 và quý 3 (Hình 2)
1.
Kỹ
thuật qua ngã bụng
·
Qua
ngã bụng, đầu dò được đặt dọc theo góc phần tư dưới của bụng, nghiêng vào giữa
trên mặt cắt cạnh dọc. Doppler màu được dùng để xác định động mạch tử cung vì
nó bắt chéo với động mạch chậu ngoài.
·
Động
mạch tử cung luôn chạy dọc mỗi bên của tử cung hướng về phía đáy tử cung. Để
thu được góc tốt nhất của tia siêu âm, vị trí đặt đầu dò nên được điều chỉnh tuỳ
theo hướng đi của động mạch tử cung.
·
Cửa
sổ Doppler nên đặt ở vị trí 1cm sau chỗ bắt chéo với động mạch chậu ngoài.
·
Trong
một phần nhỏ các trường hợp, động mạch tử cung chia nhánh trước khi bắt chéo với
động mạch chậu ngoài. Ở những trường hợp này, cửa sổ Doppler nên được đặt ở động
mạch tử cung ngay trước vị trí chia nhánh.
·
Quá
trình tương tự được lặp lại cho bên đối diện.
·
Cùng
với sự tăng lên của tuổi thai, tử cung thường lệch sang bên phải. Do đó, động mạch
tử cung bên trái không chạy dọc
bên của tử cung giống như bên phải.
2.
Kỹ
thuật qua ngã âm đạo
·
Thai
phụ nên được đề nghị đi tiểu sạch và nằm ở tư thế ngửa, chân gập 90 độ vào hông
(lithotomy position).
·
Đầu
dò được đặt ở túi cùng bên và động mạch tử cung được xác định bằng cách sử dụng
Doppler màu, ngang mức lỗ trong cổ tử cung.
·
Điều
này sau đó được lặp lại cho động mạch tử cung bên đối diện. Cần nhớ rằng khoảng
tham chiếu cho chỉ số Doppler động mạch tử cung phụ thuộc vào kỹ thuật thực hiện
phép đo, do đó nên sử dụng khoảng tham chiếu tương ứng phù hợp với phương pháp
đo qua ngã bụng hoặc ngã âm đạo. Kỹ thuật siêu âm được sử dụng nên giống với kỹ
thuật được sử dụng để xây dựng khoảng tham chiếu.
Chú
ý rằng, ở thai phụ với bất thường tử cung bẩm sinh, việc đánh giá chỉ số
Doppler động mạch tử cung và cách diễn giải là không đáng tin, vì tất cả các
nghiên cứu đã báo cáo đều được thực hiện ở những người có giải phẫu tử cung
bình thường. (ĐIỂM THỰC HÀNH TỐT)
Hình 1: Dạng sóng của động mạch tử cung thu được qua ngã bụng ở
quý 1.
Hình 2: Dạng sóng của động mạch tử cung thu được qua ngã bụng ở
quý 2. Dạng sóng bình thường (a) và bất thường (b); chú ý NOTCH (mũi tên) trên
tín hiệu Doppler ở hình (b).
II.
KỸ THUẬT THÍCH HỢP ĐỂ CẮT
DẠNG SÓNG DOPPLER ĐỘNG MẠCH RỐN
Có sự khác biệt
đáng kể giữa chỉ số Doppler động mạch rốn đo
được ở phía gần thai nhi (trong ổ bụng), ở đoạn dây rốn tự do, và ở phía gần
bánh nhau của dây rốn. Chỉ số trở kháng cao nhất đo được ở đầu gần thai nhi, và do đó, hiện
tượng mất/ đảo ngược sóng
cuối tâm trương hay được nhìn thấy đầu tiên ở vùng này. Khoảng tham chiếu cho
chỉ số Doppler động mạch rốn ở mỗi vùng đã được công bố. Với mục đích đơn giản
hoá và đồng bộ, thông qua đồng thuận, phép đo nên được thực hiện ở đoạn dây rốn
tự do. (ĐIỂM THỰC HÀNH TỐT)
Quyết định sử dụng
đoạn dây rốn tự do được thiết lập sớm trong lịch sử siêu âm Doppler sản
khoa và đã được áp dụng
mang lại thành công
lớn. Tuy nhiên, trong song thai, và/hoặc khi so sánh với phép đo lặp lại liên
tiếp, các bản ghi từ các vùng khác nhau, ví dụ như ở vị trí gần thai, gần bánh
nhau hoặc đoạn trong ổ bụng, có thể đáng tin cậy hơn. Khoảng tham chiếu phù hợp
nên được sử dụng dựa theo vùng dây rốn được đo. Hình 3 cho thấy ví dụ được
chấp nhận và không được chấp nhận của bản ghi dạng sóng Doppler và Hình 4
minh hoạ ảnh hưởng của độ lọc thành mạch máu.
Chú ý rằng,
trong đa thai, việc đánh giá dòng chảy trong động mạch rốn có thể vẫn là
thách thức, vì có một số điểm
khó khăn trong việc xác định đoạn dây rốn tự do này là của thai nào. Do đó, sẽ
tốt hơn là đo ở đoạn động mạch rốn gần vị trí cắm vào thành bụng thai nhi. Tuy
nhiên, trở kháng ở đoạn này sẽ cao hơn so với đoạn dây rốn tự do và ở đoạn dây
rốn cắm vào bánh nhau, do vậy, nên sử dụng bảng tham chiếu phù hợp với vị trí
này. (ĐIỂM THỰC HÀNH TỐT)
Chú ý rằng, trong
trường hợp dây rốn chỉ có 1 động mạch, ở bất cứ tuổi thai nào, đường kính của động
mạch rốn này sẽ lớn hơn so với đường kính động mạch rốn trong trường hợp dây rốn
có 2 động mạch rốn. Vì sự
khác biệt về mặt huyết động, dạng sóng thu được ở các trường hợp này nên được
diễn giải cẩn thận khi sử dụng các bảng tham chiếu thông thường. (ĐIỂM THỰC HÀNH TỐT)
Hình 3: Ví dụ không được chấp nhận (a) và được chấp nhận (b) về dạng
sóng Doppler động mạch rốn. Việc lưu hình ảnh được cải thiện bằng cách giảm vận
tốc dòng chảy Doppler (scale) (ví dụ giảm tần số xung lặp lại – PRF) để phóng
to bản ghi dạng sóng trên màn hình, cũng như điều chỉnh tốc độ quét để chỉ hiển
thị từ 3 tới 9 sóng liên tục.
Hình 4: (a) Dạng sóng Doppler động mạch rốn được ghi lại với cài
đặt độ lọc của thành mạch máu thấp cho thấy dòng chảy bình thường và (b) bản
ghi với dòng chảy cuối tâm trương rất thấp và mất tín hiệu sóng ở gần đường cơ
bản, bởi vì sử dụng độ lọc thành mạch máu không chính xác, ở đây cài đặt quá
cao, do đó che mất các dòng chảy có vận tốc thấp ở dọc đường cơ bản.
III.
Kỹ thuật thích hợp để
thu được dạng sóng Doppler động mạch não giữa thai nhi
·
Một
mặt cắt ngang của não thai nhi, bao gồm đồi thị và cánh xương xướm, được ghi nhận
và phóng to.
·
Phổ
màu dòng chảy được sử dụng để xác định đa giác Willis và đầu gần của MCA, ngay
dưới mặt cắt ngang đồi thị.
·
Cửa
sổ Doppler xung nên được đặt ở một phần ba đoạn gần của MCA, gần vị trí xuất
phát của nó từ động mạch cảnh trong (vận tốc thì tâm thu giảm theo khoảng cách
từ vị trị đặt cửa sổ đến điểm xuất phát của mạch máu này). (MỨC ĐỘ KHUYẾN
CÁO: C)
·
Góc
giữa tia siêu âm và hướng của dòng máu nên được giữ càng gần 0 độ càng tốt.
·
Cần
chú ý tránh tạo áp lực không cần thiết lên đầu của thai nhi, vì điều này có thể
dẫn đến tăng PSV, giảm EDV và tăng PI.
·
Ít
nhất 3 và không quá 10 sóng liên tiếp nên được ghi nhận. Điểm cao nhất của dạng
sóng được coi là PSV (cm/s).
·
PSV
có thể được đo bằng cách sử dụng con trỏ thủ công hoặc đo tự động. PI hay được
báo cáo bằng phép đo tự động, nhưng đo thủ công cũng là phương pháp được chấp
nhận. Trong thực tế, cách đặt con trỏ thủ công đã được dùng trong nghiên cứu về
giá trị của MCA PSV trong phát hiện thiếu máu thai nhi.
·
Khoảng
tham chiếu phù hợp nên được sử dụng để diễn giải, và kỹ thuật đo đạc nên được sử
dụng giống với kỹ thuật trong nghiên cứu xây dựng khoảng tham chiếu.
Hình 5: Hình ảnh Doppler màu minh hoạ đa giác Willis
Hình 6: Dạng sóng Doppler được chấp nhận của động mạch não giữa.
Chú ý góc của tia siêu âm được điều chỉnh về gần 0 độ.
Hình 7: Dạng sóng Doppler động mạch não giữa (MCA) thu được từ đầu
xa của MCA. Chú ý góc tới của tia siêu âm là 0 độ.
·
Độ
tin cậy giữa 2 người đo của phép đo MCA PI đã được báo cáo chỉ ở mức trung
bình, với sự tương đồng hạn chế giữa hai người đo. Khoảng tin cậy 95% của PI
khác biệt giữa những người đo từ +0.91 đến – 1.14 ở vị trị đặt cửa sổ ở đầu gần
của MCA. Trong khoảng 30% các trường hợp, sự khác biệt PI giữa những người đo lớn
hơn 0.5. Việc đo nhiều lần được khuyến cao để đánh giá đúng giá trị.
·
Việc
đo MCA PSV ở vị trí đầu gần của MCA là tương đồng với phép đo ở đầu xa của mạch
máu trong thực hành lâm sàng. Phía xa của mạch máu có thể được lựa chọn nếu việc
lấy một góc tới là 0 độ dễ dàng cho đầu xa hơn là đầu gần của MCA (MỨC ĐỘ
KHUYẾN CÁO: C)
[1] https://doi.org/10.1002/uog.23698
[2] Siêu âm sản phụ khoa - Bài viết | Facebook
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét