Hội chứng mất đoạn 22q11.2
Vào
năm 1965, DiGeorge đã mô tả một bệnh nhân với suy tuyến cận giáp và thiếu hụt tế
bào miễn dịch thứ phát do thiểu sản tuyến ức. Không lâu sau, mô hình dị tật của
hội chứng này được mở rộng bao gồm những dị tật khác của cung mang thứ ba và thứ tư cũng như các đặc điểm biến dạng trên
khuôn mặt. Đến năm 1978 Shprintzen báo cáo một nhóm trẻ với chẻ vòm, dị tật tim
và mũi to trội (hội chứng
vòm – tim - mặt). Sau đó
người ta xác định rằng những người mắc hội chứng vòm - tim - mặt và phần lớn
những người mắc bệnh lý được mô tả bởi DiGeorge đều bị mất đoạn nhiễm sắc thể
22q11.2. Hiện nay người ta hiểu rằng cả hai rối loạn này đều có những biểu hiện
rất khác nhau cho cùng một khiếm khuyết di truyền.
Tổng quan
Hội
chứng DiGeorge - được biết đến một cách chính xác hơn bằng thuật ngữ rộng hơn đó là hội chứng mất đoạn 22q11.2 – là rối loạn được gây
ra khi mất một phần nhỏ của nhiễm sắc thể 22.
Thuật
ngữ hội chứng mất đoạn 22q11.2 bao gồm những thuật ngữ từng được cho là các
tình trạng riêng biệt, như hội chứng DiGeorge, hội chứng vòm – tim - mặt và những
rối loạn khác mà có cùng nguyên nhân di truyền,
mặc dù những đặc điểm đó có thể khác nhau một chút.
Các vấn đề sức khỏe hay gặp ở hội chứng mất
đoạn 22q11.2 bao gồm bệnh tim bẩm sinh, chức năng hệ miễn dịch kém, khe hở hàm,
các biến chứng liên quan đến nồng độ canxi máu thấp, và chậm phát triển với các
vấn đề về hành vi và cảm xúc.
Triệu
chứng của hội chứng DiGeorge (hội chứng mất đoạn 22q11.2) có thể rất biến đổi, tùy vào cơ
quan bị ảnh hưởng và độ nặng của dị tật. Nhiều triệu chứng có thể thấy được khi
sinh, nhưng một số khác chỉ biểu hiện ở giai đoạn muộn hơn. Gần như các bệnh
nhân mắc hội chứng này đều cần điều trị với các chuyên gia trong nhiều chuyên
khoa.
Triệu chứng
•
Tim. ~75%, đặc biệt ở các đường
thoát, gồm tứ chứng Fallot, gián đoạn cung động mạch chủ type B, thân chung động
mạch, cung động mạch chủ bên phải và động mạch dưới đòn phải lạc chỗ. Những trường
hợp biểu hiện muộn trong thai kỳ thường có phổ bệnh nhẹ hơn, phổ biến là thông
liên thất. Sau sinh: Tiếng thổi ở tim và da xanh tím (cyanosis) do thiếu oxy
máu là hậu quả của các dị tật tim.
•
Hạ calci máu. Do suy tuyến cận giáp
và biến đổi theo thời gian, có thể giới hạn ở thời kỳ sơ sinh cho đến kéo dài hàng
tháng đến hàng năm. Tuy nhiên, không kéo dài suốt đời. Nó có thể không triệu chứng
(về mặt sinh hóa) hoặc biểu hiện như tetany, động kinh hoặc thở rít.
•
Suy giảm miễn dịch. Phổ biến và thường
nhẹ. Số lượng tế bào T thấp ở 75-80% trẻ và không làm tăng nguy cơ khi phẫu thuật.
Có thể có thiểu sản tuyến ức. Dưới 1% bệnh nhân không có tế bào T và cần được bảo
vệ khỏi nhiễm trùng và các chế phẩm từ máu. Sự thiếu hụt tế bào T tự cải thiện
và biến mất hầu hết khi trẻ được 2 tuổi. Giảm nồng độ IgA và IgM ở trẻ lớn xảy
ra thường xuyên hơn so với dân số chung, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng, đặc biệt
là nhiễm trùng đường hô hấp.
•
Tăng trưởng. Khó khăn trong việc bú
và nuốt thường gặp ở trẻ sơ sinh do sự phối hợp kém của cơ vùng hầu, lưỡi và thực
quản. Trào ngược dạ dày-thực quản cũng phổ biến và chứng khó nuốt có thể gây sặc
và viêm phổi. Trẻ có dị tật tim có thể thở nông, gây khó bú và chậm tăng trưởng.
•
Khuôn mặt. Các dị hình thường nhẹ
nhưng khá điển hình, như hai mắt xa nhau, mắt mí lót, cằm nhỏ, mũi hình ống, đầu
mũi to, tai bám thấp, hoặc nhân trung hẹp
•
Thính giác và ngôn ngữ. ~10% có điếc
thần kinh giác quan, 45% điếc dẫn truyền. 75% nói âm mũi cao và tỉ lệ cao mất
phối hợp từ. Khó diễn đạt lời nói bao gồm khiếm khuyết về phát âm, khả năng tiếp
thu ngôn ngữ và khả năng hiểu.
•
Thận. Bất sản thận, thận đôi, loạn sản
thận, niệu quản đôi và các dị tật nhỏ khác được phát hiện ở 1/3 bệnh nhân. Bệnh
lắng đọng calci ở thận có thể tăng lên do quá thừa calci thay thế do hạ calci
máu
•
Các rối loạn cơ-xương-khớp. Giảm trương
lực cơ và lỏng lẻo khớp thường kèm với các cơn đau chân đối xứng. Tần suất vẹo
xương sống gấp 3-8 lần so với dân số chung.
•
Chậm phát triển và khó khăn trong học tập. IQ trung bình ~70, ở mức bình thường hoặc
giảm nhẹ. Không
phải tất cả các kỹ năng nhận thức đều bị ảnh hưởng và hầu hết có kỹ năng phù hợp
trong các lĩnh vực hiểu biết và các quy tắc xã hội.
•
Các vấn đề về hành vi và tâm thần. Gồm
rối loạn tăng động giảm chú ý, kỹ năng tương tác xã hội kém, bốc đồng. Rối loạn
lưỡng cực, rối loạn phổ tự kỉ, rối loạn tâm thần phân liệt có tỉ lệ 10-30% ở
thanh thiếu niên và người lớn. Nguy cơ mắc các bệnh tâm thần cao hơn 25 lần so
với dân số chung.
Nghi
ngờ hội chứng mất đoạn 22q11.2 khi:
·
Lúc
mới sinh. Nếu có nhiều biểu hiện rõ ràng – một dị tật tim nặng, chẻ vòm hoặc
nhiều biểu hiện điển hình của hội chứng mất đoạn 22q11.2, xét nghiệm chẩn đoán
có thể được thực hiện trước khi cho trẻ xuất viện.
·
Khi
thăm khám định kì. Nghi ngờ khi trẻ mắc bệnh hay các rối loạn tái diễn. Nhiều vấn đề
khác có thể được bác sĩ chú ý khi thăm khám định kì hay khám sức khỏe hàng năm.
Nguyên nhân
Mỗi
người có 2 bản sao của nhiễm sắc thể 22, được di truyền từ bố và mẹ. Ở hội chứng
DiGeorge (hội chứng mất đoạn 22q11.2), một nhiễm sắc thể 22 bị mất một đoạn 1.5-3
megabase trên nhánh dài, chứa 30-40 gene, trong đó có TBX1 – gen lớn nhất. Nhiều gene trong số đó chưa được xác
định rõ ràng và chưa được hiểu biết rõ. Vùng nhiễm sắc thể 22 bị mất được gọi
là 22q11.2.
Đây
là kiểu di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường nhưng trong hầu hết các trường hợp nó là đột biến mới (de novo).
Dưới 10% các bệnh nhân có mất đoạn 22q11.2 di truyền trong gia đình. Tính thấm
là 100% với sự biểu hiện có dao động lớn. Cha mẹ không mắc bệnh có thể mang mất
đoạn trong trứng hoặc tinh trùng (thể khảm tế bào mầm) với tỉ lệ tái mắc là 1% ở
thai kỳ sau.
Dịch tễ
Xảy
ra ở khoảng 1/4000 ca sinh và tần suất đang tăng lên do cha mẹ mắc bệnh sinh
con. Tỷ lệ trong thai kỳ được ước đoán cao hơn
khoảng 1/1000 thai kỳ. Là bất thường di truyền phổ biến thứ 2 sau hội chứng Down.
Rất
khó để ước tính tỉ lệ chính xác, vì số người được chẩn đoán phụ thuộc vào kinh
nghiệm và nhận thức về hội chứng này của các chuyên gia.
Chẩn đoán
Với
những tiến bộ nhanh chóng trong di truyền phân tử, xét nghiệm được lựa chọn là
karyotype để loại trừ những đảo đoạn lớn và lai tại chỗ phát huỳnh quang (FISH)
sử dụng các đầu dò từ những đoạn mất. Cha mẹ cũng nên được tầm soát về tình trạng
mang bệnh. Trong khi
chẩn đoán di truyền bằng FISH có thể xác định 95% các trường hợp, 5% còn lại với
mất đoạn không điển hình cần nhiều kỹ thuật tiên
tiến hơn, bao gồm phân tích nhiễm sắc thể bằng microarray - CMA.
Vì
những đối tượng mang mất đoạn 22q11.2 có 50% nguy cơ truyền đoạn mất này, họ cần
được tư vấn di truyền và thực hiện FISH hoặc CMA để phát hiện
trước sinh (vào 11-12
tuần thai) bằng sinh thiết gai nhau hoặc chọc ối từ 16 tuần.
Điều trị
Mặc
dù không có cách điều trị nguyên nhân gây hội chứng DiGeorge (hội chứng mất đoạn 22q11.2), nhưng điều trị có
thể khác phục các vấn đề quan trọng như dị tật tim hoặc chẻ vòm. Những vấn đề sức
khỏe khác có thể được theo dõi sau đó.
•
Suy tuyến cận giáp. Bổ sung calcium
và vitamin D.
•
Dị tật tim. Hầu hết các dị tật tim
trong hội chứng mất đoạn 22q11.2 cần phẫu thuật sớm sau sinh để sửa chữa và
cung cấp dòng máu giàu oxy
•
Chức năng tuyến ức. Nếu chức năng
tuyến ức vẫn còn, có thể gặp nhiễm trùng tái diễn nhưng không nặng. Thường gặp
cảm lạnh và nhiễm trùng tai, dễ điều trị vì có thể gặp ở bất kỳ trẻ nào. Với hầu
hết trẻ với suy chức năng tuyến ức mức độ vừa, hệ miễn dịch sẽ được cải thiện
theo tuổi. Nếu chức năng bị giảm nặng hoặc không có tuyến ức cần ghép mô tuyến ức,
tế bào chuyên biệt từ tủy xương hoặc tế bào miễn dịch chuyên biệt.
•
Chẻ vòm. Có thể phẫu thuật sửa chữa.
•
Sự phát triển. Liệu pháp ngôn ngữ, vật
lý trị liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/digeorge-syndrome/symptoms-causes/syc-20353543
[2] https://patient.info/doctor/22q112-deletion-syndrome
[3] https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/digeorge-syndrome/diagnosis-treatment/drc-20353548
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét